Quảng Trị

Chi tiết - Quảng Trị

TỔNG QUAN VỀ TỈNH QUẢNG TRỊ

Quảng Trị tổ chức kỷ niệm các ngày lễ lớn gắn với quảng bá du lịch | Văn hóa | Vietnam+ (VietnamPlus)

I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN- XÃ HỘI

1. Vị trí địa lý

Tỉnh Quảng Trị nằm trên tọa độ địa lý từ 160 18 ‘ đến 170 10’ vĩ độ Bắc, 106 032 ‘ đến 1070 34 ‘ kinh Đông, Phía Bắc giáp huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, phía Nam giáp huyện Phong Điền và A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế, phía Đông giáp Biển Đông, phía Tây giáp tỉnh Savanakhet và Salavan, nước CHDCND Lào

– Quảng Trị có lợi thế về địa lý – kinh tế, là đầu mối giao thông, nằm ở trung điểm đất nước, ở vị trí quan trọng – điểm đầu trên tuyến đường huyết mạch chính của hành lang kinh tế Đông – Tây nối với Lào – Thái Lan – Mianmar qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo đến các cảng biển Miền Trung như: Cửa Việt, Chân Mây, Đà Nẵng, Vũng Áng… Đây là điều kiện rất thuận lợi để Quảng Trị mở rộng hợp tác kinh tế trong khu vực, giao thương hàng hóa, vận tải quốc tế, phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch

– Quảng Trị có điều kiện giao thông khá thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt và đường thuỷ. Qua địa phận Quảng Trị có các tuyến giao thông huyết mạch như Quốc lộ 1A, đường Hồ Chí Minh (nhánh Đông và nhánh Tây), tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy dọc qua tỉnh, và Quốc lộ 9 gắn với đường xuyên Á cho phép Quảng Trị có thể giao lưu kinh tế với các tỉnh trong vùng và cả nước. Cảng Cửa Việt là một trong những cảng biển có thể phục vụ cho vận chuyển hàng hóa trong vùng và trung chuyển hàng hóa qua đường Xuyên Á. Cách không xa trung tâm tỉnh lỵ Đông Hà có sân bay Phú Bài – Thừa Thiên Huế (khoảng 80 km) và sân bay quốc tế Đà Nẵng (khoảng 150 km).

2. Địa hình

Do cấu tạo của dãy Trường Sơn, địa hình Quảng Trị thấp dần từ Tây sang Đông, Đông Nam và chia thành 4 dạng địa hình: vùng núi cao phân bố ở phía Tây từ đỉnh dãy Trường Sơn đến miền đồi bát úp; vùng trung du và đồng bằng nhỏ hẹp chạy dọc tỉnh; kế đến là vùng cát nội đồng và ven biển. Do địa hình phía Tây núi cao, chiều ngang nhỏ hẹp nên hệ thống sông suối đều ngắn và dốc.

– Địa hình núi cao: Phân bố ở phía Tây từ dãy Trường Sơn đến miền đồi bát úp, chiếm diện tích lớn nhất, có độ cao từ 250-2000 m, độ dốc 20-300. Địa hình phân cắt mạnh, độ dốc lớn, quá trình xâm thực và rửa trôi mạnh. Các khối núi điển hình là Động Voi Mẹp, Động Sa Mui, Động Châu, Động Vàng. Địa hình vùng núi có thể phát triển trồng rừng, trồng cây lâu năm và chăn nuôi đại gia súc. Tuy nhiên phần lớn địa hình bị chia cắt mạnh, sông suối, đèo dốc nên đi lại khó khăn, làm hạn chế trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng như giao thông, mạng lưới điện… cũng như tổ chức đời sống xã hội và sản xuất. Tuy nhiên có tiềm năng thủy điện nhỏ khá phong phú

– Địa hình gò đồi, núi thấp: Là phần chuyển tiếp từ địa hình núi cao đến địa hình đồng bằng, chạy dài dọc theo tỉnh. Có độ cao từ 50-250m, một vài nơi có độ cao trên 500 m. Địa hình gò đồi, núi thấp (vùng gò đồi trung du) tạo nên các dải thoải, lượn sóng, độ phân cắt từ sâu đến trung bình. Khối bazan Gio Linh – Cam Lộ có độ cao xấp xỉ 100 – 250 m dạng bán bình nguyên, lượn sóng thoải, vỏ phong hóa dày, khối bazan Vĩnh Linh nằm sát ven biển, có độ cao tuyệt đối từ 50-100m. Địa hình gò đồi, núi thấp thích hợp cho trồng cây công nghiệp như cao su, hồ tiêu, cây ăn quả lâu năm.

– Địa hình đồng bằng: Là những vùng đất được bồi đắp phù sa từ hệ thống các sông, địa hình tương đối bằng phẳng, có độ cao tuyệt đối từ 25-30 m. Bao gồm đồng bằng Triệu Phong được bồi tụ từ phù sa sông Thạch Hãn khá màu mỡ; đồng bằng Hải Lăng, đồng bằng sông Bến Hải tương đối phì nhiêu. Đây là vùng trọng điểm sản xuất lương thực, nhất là sản xuất lúa ở các huyện Hải Lăng, Triệu Phong, Gio Linh, Vĩnh Linh.

– Địa hình ven biển: Chủ yếu là các cồn cát, đụn cát phân bố dọc ven biển. Địa hình tương đối bằng phẳng, thuận lợi cho việc phân bố dân cư. Một số khu vực có địa hình phân hóa thành các bồn trũng cục bộ dễ bị ngập úng khi có mưa lớn hoặc một số khu vực chỉ là các cồn cát khô hạn, sản xuất chưa thuận lợi, làm cho đời sống dân cư thiếu ổn định

.     Nhìn chung với địa hình đa dạng, phân hoá thành các tiểu khu vực, nhiều vùng sinh thái khác nhau tạo cho Quảng Trị có thể phát triển toàn diện các ngành kinh tế, đặc biệt là tạo nên các vùng tiểu khí hậu rất thuận lợi cho đa dạng hóa các loại cây trồng vật nuôi trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.

3. Khí hậu

Quảng Trị nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có nền nhiệt độ cao, chế độ ánh sáng và mưa, ẩm dồi dào, tổng tích ôn cao… là những thuận lợi cơ bản cho phát triển các loại cây trồng nông, lâm nghiệp. Tuy nhiên, Quảng Trị được coi là vùng có khí hậu khá khắc nghiệt, chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam khô nóng thổi mạnh từ tháng 3 đến tháng 9 thường gây nên hạn hán. Từ tháng 10 đến tháng 2 năm sau chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc kèm theo mưa nên dễ gây nên lũ lụt.

– Nhiệt độ: Nhiệt độ trung bình năm từ 24-25 độ C ở vùng đồng bằng, 22-23 độ C ở độ cao trên 500 m. Mùa lạnh có 3 tháng (12 và 1, 2 năm sau), nhiệt độ xuống thấp, tháng lạnh nhất nhiệt độ xuống dưới 22 độ C ở đồng bằng, dưới 20 độ C ở độ cao trên 500 m. Mùa nóng từ tháng 5 đến tháng 8 nhiệt độ cao trung bình 28 độ C, tháng nóng nhất từ tháng 6, 7, nhiệt độ tối cao có thể lên tới 40-42 độ C. Biên độ nhiệt giữa các tháng trong năm chênh lệch 7-9 độ C. Chế độ nhiệt trên địa bàn tỉnh thuận lợi cho phát triển thâm canh tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp

– Chế độ mưa: Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 2.200-2.500 mm; số ngày mưa trong năm dao động từ 154-190 ngày. Chế độ mưa ở Quảng Trị biến động rất mạnh theo các mùa và cả các năm. Trên 70% lượng mưa tập trung vào các tháng 9, 10, 11. Có năm lượng mưa trong 1 tháng mùa mưa chiếm xấp xỉ 65% lượng mưa trung bình nhiều năm. Mùa khô thường từ tháng 12 đến tháng 7 năm sau, khô nhất vào tháng 7, đây là thời kỳ có gió Tây Nam thịnh hành. Tính biến động của chế độ mưa ảnh hưởng nhiều tới sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp, cũng như thi công các công trình xây dựng… Mùa mưa, lượng mưa lớn tập trung trong thời gian ngắn thường gây nên lũ lụt; mùa hè, thời gian mưa ít kéo dài thường gây nên thiếu nước, khô hạn.

– Độ ẩm: Quảng Trị có độ ẩm tương đối, trung bình năm khoảng 83-88%. Giữa hai miền Đông và Tây Trường Sơn chế độ ẩm cũng phân hóa theo thời gian. Tháng có độ ẩm thấp nhất là tháng 4, độ ẩm thấp nhất có khi xuống đến 22%; trong những tháng mùa mưa, độ ẩm tương đối trung bình thường trên 85%, có khi lên đến 88-90%.

– Nắng: Quảng Trị có số giờ nắng khá cao, trung bình 5-6 giờ/ ngày, có sự phân hóa theo thời gian và không gian rõ rệt: miền Đông có tổng số giờ nắng lên tới 1.910 giờ, miền Tây chỉ đạt 1.840 giờ. Các tháng có số giờ nắng cao thường vào tháng 5, 6, 7, 8, đạt trên 200 giờ. Nắng nhiều là điều kiện rất thuận lợi cho quang hợp, tăng năng suất sinh học cây trồng. Tuy nhiên, nắng nhiều và kéo dài, nhiệt độ cao dẫn đến hạn hán ảnh hưởng tới sản xuất và đời sống dân cư

–  Gió: Tỉnh Quảng Trị chịu ảnh hưởng của hai hướng gió chính là gió mùa Tây Nam và gió mùa Đông Bắc. Đặc biệt gió Tây Nam khô nóng ở Quảng Trị là hiện tượng rất điển hình, được đánh giá là dữ dội nhất ở nước ta. Trung bình mỗi năm có khoảng 45 ngày. Trong các đợt gió Tây Nam khô nóng, nhiệt độ có thể lên tới 40-42 độ C. Gió Tây Nam khô nóng làm ảnh hưởng không nhỏ tới các hoạt động kinh tế – xã hội, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp

– Bão và áp thấp nhiệt đới: Quảng Trị nằm trong khu vực chịu nhiều ảnh hưởng của bão. Mùa bão thường tập trung vào các tháng 9 và 10. Bão có cường suất gió mạnh kèm theo mưa lớn tạo ra lũ quét ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất nông nghiệp và đời sống dân cư

Nhìn chung điều kiện tự nhiên của Quảng Trị có những thuận lợi khá cơ bản: do sự phân hóa đa dạng của độ cao địa hình tạo nên các vùng tiểu khí hậu thích hợp cho sự phát triển một nền nông nghiệp đa dạng với các loại cây trồng vật nuôi có nguồn gốc nhiệt đới, á nhiệt và cận ôn đới, có giá trị kinh tế cao. Điều này mang lại lợi thế cạnh tranh trong phát triển nông nghiệp hàng hóa. Tiểu vùng khí hậu đỉnh Trường Sơn với tính ôn hoà là tài nguyên quý mang lại sức hấp dẫn cho sự phát triển các hoạt động dịch vụ, du lịch, tạo không gian mát mẻ cho tham quan, nghỉ dưỡng, đặc biệt là trong mùa hè nóng gay gắt của vùng Bắc Trung Bộ. Đây là điểm độc đáo của khí hậu Quảng Trị.

Bên cạnh những yếu tố thuận lợi cơ bản, điều kiện khí hậu, thời tiết của Quảng Trị cũng như ở các tỉnh miền Trung mang tính chất khắc nghiệt: thường xảy ra hạn hán về mùa khô và lũ lụt vào mùa mưa. Do đó việc khắc phục thiên tai, xây dựng các công trình thuỷ lợi, trồng rừng đầu nguồn để giữ nước chống lũ lụt nhằm ổn định sản xuất và đời sống có ý nghĩa to lớn cần được quan tâm

4. Dân cư

Cộng đồng các dân tộc tỉnh Quảng Trị chủ yếu gồm 3 dân tộc chính: Kinh, Vân Kiều (một nhóm của dân tộc Bru- Vân Kiều và Pa Cô (một nhóm của dân tộc Tà Ôi). Tỉ lệ các dân tộc thiểu số chiếm khoảng 9% tổng dân số. Mỗi dân tộc đều có lịch sử lâu đời và có truyền thống văn hóa phong phú, đặc sắc, đặc biệt là văn hóa dân gian. Đồng bào người thiểu số Vân Kiều và Pa Cô sinh sống chủ yếu ở các huyện miền núi phía Tây của tỉnh như: Hướng Hóa, Đakrông.

Mật độ dân số toàn tỉnh là 126,7 người/km2,thuộc loại thấp so với các tỉnh, thành khác trong cả nước. Dân cư phân bố không đều giữa các vùng lãnh thổ, tập trung đông ở các thành phố, thị xã, các huyện đồng bằng như thị xã Quảng Trị: 308 người/km2, thị xã Đông Hà: 1.157 người/km2, trong khi đó huyện Đakrông chỉ có 29 người/km2, Hướng Hoá 64 người/km2. Sự phân bố dân cư không đồng đều giữa các vùng gây ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng các công trình hạ tầng giao thông, điện, nước, thủy lợi, trường học, trạm y tế… phục vụ sản xuất và dân sinh ở những vùng có địa hình núi cao, chia cắt, thưa dân.

5. Truyền thống văn hóa: Nhân dân Quảng Trị có truyền thống cần cù, hiếu học; sáng tạo trong lao động sản xuất và có tình tương thân, tương ái, giúp nhau trong đời sống, nhất là khi thiên tai, dịch bệnh, trong xóa đói giảm nghèo. Trải qua những giai đoạn khốc liệt của các cuộc chiến tranh, người dân Quảng Trị vẫn bất khuất, kiên trung vượt qua gian khó vươn lên. Quảng Trị còn là vùng đất lịch sử nổi tiếng, có truyền thống yêu nước, cách mạng, sản sinh những người con kiệt xuất cho đất nước, tiêu biểu là Tổng bí thư Lê Duẩn. Qua các thời kỳ phát triển, Quảng Trị đã có nhiều danh nhân đạt những danh hiệu cao quý.

6. Thuỷ văn

Quảng Trị có hệ thống sông ngòi khá dày đặc, mật độ trung bình 0,8-1 km/km2. Do đặc điểm địa hình bề ngang hẹp, có dãy Trường Sơn núi cao ở phía Tây nên các sông của Quảng Trị có đặc điểm chung là ngắn và dốc. Toàn tỉnh có 12 con sông lớn nhỏ, tạo thành 03 hệ thống sông chính là sông Bến Hải, sông Thạch Hãn và sông Ô Lâu (Mỹ Chánh).

– Hệ thống sông Bến Hải: Bắt nguồn từ khu vực động Châu có độ cao 1.257 m, có chiều dài 65 km. Lưu lượng trung bình năm 43,4 m3/s. Diện tích lưu vực rộng khoảng 809 km2. Sông Bến Hải đổ ra biển ở Cửa Tùng

– Hệ thống sông Thạch Hãn: Có chiều dài 155 km, diện tích lưu vực lớn nhất 2.660 km2. Nhánh sông chính là Thạch Hãn bắt nguồn từ các dãy núi lớn Động Sa Mui, Động Voi Mẹp (nhánh Rào Quán) và động Ba Lê, động Dang (nhánh Đakrông). Sông Thạch Hãn đổ ra biển ở Cửa Việt.

– Hệ thống sông Ô Lâu (sông Mỹ Chánh): Được hợp bởi hai nhánh sông chính là Ô Lâu ở phía Nam và sông Mỹ Chánh ở phía Bắc. Diện tích lưu vực của hai nhánh sông khoảng 900 km2, chiều dài 65 km. Sông đổ ra phá Tam Giang thuộc địa phận tỉnh Thừa Thiên Huế.

Ngoài ra, ở phía Tây giáp biên giới Việt – Lào có một số sông nhánh chảy theo hướng Tây thuộc hệ thống sông Mê Kông. Các nhánh điển hình là sông Sê Pôn đoạn cửa khẩu Lao Bảo – A Đớt, sông Sê Păng Hiêng đoạn đồn biên phòng Cù Bai, Hướng Lập (Hướng Hóa).

Hệ thống suối: Phân bố dày đặc ở vùng thượng nguồn. Các thung lũng suối phần lớn rất hẹp, độ dốc lớn tạo ra nhiều thác cao hàng trăm mét và phân bậc phức tạp. Nhìn chung, hệ thống sông suối của Quảng Trị phân bố đều khắp, điều kiện thủy văn thuận lợi cung cấp nguồn nước dồi dào phục vụ cho sản xuất và đời sống, đồng thời có tiềm năng thủy điện cho phép xây dựng một số nhà máy thuỷ điện với công suất vừa và nhỏ.

Thuỷ triều trên dải bờ biển Quảng Trị có chế độ bán nhật triều không đều, gần nửa số ngày trong mỗi tháng có 2 lần nước lớn, 2 lần nước ròng. Mực nước đỉnh triều tương đối lớn từ tháng 8 đến tháng 12 và nhỏ hơn từ tháng 1 đến tháng 7. Biên độ triều lên lớn nhất hàng tháng trong các năm không lớn, dao động từ 59 – 116 cm. Biên độ triều xuống lớn nhất cũng chênh lệch không nhiều so với giá trị trên. Độ lớn triều vào kỳ nước cường có thể đạt tới 2,5 m.

7 . Tài nguyên thiên nhiên

7.1 Tài nguyên đất

Theo số liệu thống kê tỉnh Quảng Trị năm 2008, tổng diện tích tự nhiên toàn tỉnh có 474.699,11 ha. Các loại đất chia theo mục đích sử dụng bao gồm:

– Đất nông nghiệp: Có diện tích là 301.993,75 ha, chiếm 63,62% tổng diện tích đất tự nhiên. Bình quân đất nông nghiệp/người là 4.770 m2.

– Đất phi nông nghiệp: Diện tích có 41.421,31 ha, chiếm 8,73% tổng diện tích đất tự nhiên.
– Đất chưa sử dụng: Còn 131.284,05 ha, chiếm 27,66% tổng diện tích đất tự nhiên.
Tuy diện tích đất chưa sử dụng còn nhiều nhưng phần lớn là đất cồn cát, đất chua mặn, đất đồi núi chia cắt mạnh, có tầng dày mỏng, nhiều diện tích bị kết vón đá ong, phân bố rải rác, không tập trung và có những vùng còn bom mìn chưa được rà phá. Do đó để cải tạo, khai thác đưa vào sử dụng được trong các ngành kinh tế cần có đầu tư vốn lớn và kỹ thuật, thuỷ lợi, rà phá bom mìn…

7. 2. Tài nguyên rừng và thảm thực vật

Năm 2009, toàn tỉnh có 220.797 ha đất lâm nghiệp có rừng với tổng trữ lượng gỗ khoảng 11 triệu m3. Rừng Quảng Trị có khoảng 1.053 loại thực vật thuộc 528 chi, 130 họ, trong đó có 175 loài cây gỗ. Động vật rừng cũng khá phong phú và đa dạng. Hiện tại có khoảng 67 loài thú, 193 loài chim và 64 loài lưỡng cư bò sát (thuộc 17 họ, 3 bộ) đang sinh sống tại rừng Quảng Trị. Do chiến tranh tàn phá nặng nề và do khai thác rừng để phát nương làm rẫy trong nhiều năm, đặc biệt một số vùng rừng bị chất độc hóa học hủy hoại, khó có thể khôi phục lại nên hệ sinh thái rừng tự nhiên bị suy thoái, trữ lượng rừng tự nhiên bị giảm sút, chất lượng rừng thấp kém. Cần có biện pháp hữu hiệu nhằm tăng cường quản lý, bảo vệ và phục hồi rừng tự nhiên.

Rừng trồng các loại có diện tích 85.820 ha, nhìn chung rừng trồng chất lượng tốt, tăng trưởng ở mức độ trung bình; rừng trồng sản xuất chủ yếu bao gồm các loại keo lá tràm, keo tai tượng, keo lai. được trồng tập trung và có yếu tố thâm canh nên hiệu quả kinh tế khá cao; đã chú trọng du nhập đưa các cây lâm nghiệp mới vào trồng rừng sản xuất; một số cây bản địa như sến, muồng đen, sao đen đã được đưa vào trồng rừng phòng hộ.Diện tích rừng thông nhựa khoảng 25.000 ha, sản lượng khai thác nhựa thông năm 2010 đạt 1.998 tấn.

7. 3. Tài nguyên biển

Quảng Trị có bờ biển dài 75 km với 2 cửa lạch quan trọng là Cửa Việt và Cửa Tùng. Vùng lãnh hải đặc quyền kinh tế rộng trên 8.400 km2, ngư trường đánh bắt rộng lớn, khá giàu hải sản có giá trị kinh tế cao như tôm hùm, mực nang, cua, hải sâm, tảo và một số loài cá, san hô quý hiếm. Trữ lượng hải sản vùng biển tỉnh Quảng Trị có khoảng 60.000 tấn. Khả năng khai thác hàng năm khoảng 17.000 tấn. Diện tích vùng bãi bồi ven sông trên 4.000 ha, đặc biệt vùng ven biển có khoảng 1.000 ha mặt nước và một số diện tích đất bị nhiễm mặn, đất cát có khả năng chuyển đổi để phát triển nuôi trồng thuỷ hải sản các loại.

Ngoài khơi cách đất liền 28 hải lý là đảo Cồn Cỏ có vị trí quan trọng về kinh tế và quốc phòng, hiện đang xây dựng cảng cá và khu dịch vụ hậu cần nghề cá Cồn Cỏ để phục vụ cho tàu thuyền trong tỉnh và các tỉnh trong vùng. Ven biển có một số vũng kín gió, thuận lợi cho phát triển cảng, xây dựng các nhà máy đòng tàu, sửa chữa tàu biển và xây dựng các khu neo đậu tàu thuyền như khu vực Cửa Việt, Cửa Tùng. Dọc bờ biển Quảng Trị có nhiều bãi tắm, cảnh quan đẹp, có các di tích lịch sử cách mạng có thể đưa vào khai thác du lịch như bãi tắm Cửa Việt, Cửa Tùng, Mỹ Thuỷ, Triệu Lăng, địa đạo Vịnh Mốc…

Cách không xa bờ biển Quảng Trị khoảng 100 – 120 km có nguồn khí mêtan chất lượng cao với trữ lượng từ 60 – 100 tỷ m3. Khu vực mỏ nằm gần đảo Cồn Cỏ, nếu khai thác nguồn khí này đưa vào đất liền thì tỉnh Quảng Trị là địa điểm gần nhất và tạo ra khả năng cho phát triển công nghiệp chế biến từ nguyên liệu khí đốt và vật liệu công nghệ mới.

Với tiềm năng tài nguyên biển, đảo đa dạng, Quảng Trị có điều kiện đẩy mạnh phát triển tổng hợp kinh tế biển như đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản; dịch vụ hậu cần nghề cá; cảng hàng hóa và vận tải biển; du lịch sinh thái biển, đảo. Trên cơ sở phát triển hài hòa các ngành kinh tế biển trong sự gắn kết chặt chẽ với định hướng phát triển chung của vùng và cả nước, gắn kết với phát triển hành lang kinh tế Đông – Tây nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng về biển, đảo.

7. 4. Tài nguyên nước

Trên địa bàn tỉnh có 3 hệ thống sông chính đổ ra biển là Bến Hải, Thạch Hãn và Ô Lâu. Sự phân bố đều khắp của các sông này là nguồn nước mặt chính cung cấp nước cho sản xuất và sinh hoạt. Các con sông này đều có lưu lượng nước lớn về mùa mưa. Trong những năm mưa ít thì các sông nhánh và khe suối nhỏ thường bị cạn kiệt gây nên hạn hán.

Nước ngầm trong các tầng trầm tích và phong hóa phát triển các địa hình núi thấp ven sông. Đây là nguồn cung cấp nước khá quan trọng cho sản xuất và sinh hoạt. Nước trong tầng đất đỏ phong hóa từ đá bazan có chất lượng tốt theo các chỉ tiêu hóa học… Nguồn nước này rất có giá trị đối với nhân dân vùng miền núi. Hình thức khai thác hiện nay chủ yếu là các giếng đào theo quy mô hộ gia đình với lưu lượng thấp.

7.5. Tài nguyên khoáng sản

Tài nguyên khoáng sản của tỉnh Quảng Trị khá phong phú và đa dạng, đặc biệt là khoáng sản làm nguyên liệu sản xuất xi măng và làm vật liệu xây dựng. Đây là điều kiện để tỉnh có thể phát triển mạnh công nghiệp xi măng và VLXD.

Theo tài liệu hiện có, trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có 130 mỏ và điểm khoáng sản, trong đó có 86 điểm, mỏ vật liệu xây dựng và nguyên liệu sản xuất xi măng với các loại chủ yếu như đá vôi, đá sét và các chất phụ gia (như đá bazan, quặng sắt), sét gạch ngói, cát cuội sỏi, cát thủy tinh, cao lanh… Ngoài ra còn có các điểm, mỏ khoáng sản khác như vàng, titan, than bùn…

– Đá vôi xi măng: Có tổng trữ lượng trên 3 tỷ tấn, tập trung chủ yếu ở các mỏ: Tân Lâm, Cam Thành (Cam Lộ), Tà Rùng, Hướng Lập (Hướng Hóa); sét ximăng ở Cam Tuyền, Tà Rùng, phụ gia xi măng khác ở Cùa, Tây Gio Linh…

– Đá xây dựng, ốp lát: Toàn tỉnh có 10 điểm, mỏ đá xây dựng, trữ lượng khoảng 500 triệu m3; phân bố chủ yếu dọc Quốc lộ 9 và đường Hồ Chí Minh trở về phía Tây, có điều kiện giao thông khá thuận lợi. Đá ốp lát có 4 điểm là đá granit Chân Vân, đá hoa Khe Ngài, granodiorit Đakrông và gabro Cồn Tiên.

– Sét gạch ngói: Hiện có 18 điểm, mỏ với trữ lượng khoảng gần 82 triệu m3, phân bố ở nhiều nơi nhưng tập trung chủ yếu ở Vĩnh Linh, Gio Linh, Cam Lộ, Triệu Phong, Hải Lăng.
– Cát, cuội, sỏi xây dựng: Có 16 mỏ và điểm, trữ lượng dự báo khoảng 3,9 triệu m3, tập trung ở phần thượng nguồn các sông, nằm ở những vùng có giao thông thuận lợi cho việc khai thác.

– Cát thủy tinh: Dự báo trữ lượng khoảng 125 triệu m3, chất lượng tốt, phân bố chủ yếu ở Gio Linh, Triệu Phong, Hải Lăng nhưng tập trung ở khu vực Cửa Việt; có khả năng chế biến silicát, sản xuất thủy tinh và kính xây dựng.

– Cao lanh: Đã phát hiện được 03 điểm cao lanh là Tà Long, A Pey (Đăkrông) và La Vang (Hải Lăng) chất lượng khá tốt, đang tiếp tục thăm dò, thử nghiệm để đưa vào khai thác.
– Than bùn: Phân bố tập trung ở Hải Lăng và Gio Linh với tổng trữ lượng gần 400 ngàn tấn cho phép khai thác làm nguyên liệu sản xuất phân vi sinh với khối lượng khá lớn.

– Ti tan: Phân bố dọc ven biển nhưng tập trung chủ yếu ở Vĩnh Linh, Gio Linh, Hải Lăng, có trữ lượng trên 500.000 tấn, có thể khai thác với khối lượng khoảng 10 – 20 nghìn tấn/năm để chế biến xuất khẩu.

– Nước khoáng: Phân bố ở Cam Lộ, Đakrông cho phép phát triển công nghiệp sản xuất nước khoáng, phát triển các dịch vụ nghỉ dưỡng, chữa bệnh.

– Vàng: Phân bố ở Vĩnh Ô (Vĩnh Linh), Tà Long, A Vao (Đakrông) với trữ lượng khoảng 20 tấn, trong đó điểm mỏ vàng góc A Vao đã được thăm dò có thể tổ chức khai thác với quy mô công nghiệp.

– Ngoài ra còn có pirít phân bố ở Vĩnh Linh.

Nguồn tài nguyên khoáng sản trên địa bàn hầu hết chưa được điều tra thăm dò chi tiết, cần phải tập trung thực hiện trong thời gian tới để có sơ sở thu hút đầu tư, tổ chức khai thác đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế của tỉnh.

7.6. Tài nguyên du lịch

Quảng Trị có nhiều tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn khá phong phú, phân bố rộng khắp trên các địa bàn trong tỉnh và gần các trục giao thông chính nên rất thuận lợi cho khai thác. Đặc biệt Quảng Trị có hệ thống di tích chiến tranh cách mạng gắn liền với cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại của dân tộc, trong đó có những địa danh nổi tiếng thế giới như Thành cổ Quảng Trị, địa đạo Vịnh Mốc, di tích Hiền Lương, Cồn Tiên, Dốc Miếu, đường mòn Hồ Chí Minh, Khe Sanh, Làng Vây, nghĩa trang liệt sỹ Trường Sơn…

Quảng Trị còn là bảo tàng sinh động nhất về di tích chiến tranh cách mạng, đó là cơ sở để tạo sản phẩm du lịch hoài niệm về chiến trường xưa độc đáo.

Quảng Trị có bờ biển dài với những cảnh quan đẹp, còn nguyên sơ với những bãi tắm nổi tiếng như Cửa Tùng, Cửa Việt, Mỹ Thủy, Triệu Lăng, Cồn Cỏ… để phát triển du lịch sinh thái biển. Quảng Trị có vị trí đầu cầu trên hành lang kinh tế Đông – Tây, điểm kết nối giữa sản phẩm du lịch Đông – Tây, Con đường di sản miền Trung và Con đường huyền thoại.

Ngoài ra, Quảng Trị còn có những cánh rừng nguyên sinh, suối nước nóng ở Đakrông, khu vực hồ Rào Quán – Khe Sanh… cho phép phát triển du lịch lâm sinh thái; có tiềm năng phát triển du lịch nghiên cứu văn hóa dân tộc như lễ hội dân tộc Vân Kiều, Pa Cô, lễ hội truyền thống cách mạng; du lịch nghiên cứu tâm linh như lễ kiệu La Vang… Tiềm năng du lịch cho phép Quảng Trị phát triển du lịch thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh trong giai đoạn tới.

8. Giao thông

Cầu Thạch Hãn vượt sông Thạch Hãn

Quảng Trị có điều kiện giao thông khá thuận lợi cả về đường bộ, đường sắt và đường thủy. Qua địa phận Quảng Trị có các tuyến giao thông huyết mạch như Quốc lộ 1, đường Hồ Chí Minh (nhánh Đông và nhánh Tây), tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy dọc qua tỉnh, và Quốc lộ 9 gắn với đường xuyên Á cho phép Quảng Trị có thể giao lưu kinh tế với các tỉnh trong vùng và cả nước. Cảng Cửa Việt là một trong những cảng biển có thể phục vụ cho vận chuyển hàng hóa trong vùng và trung chuyển hàng hóa qua đường Xuyên Á. Cách không xa trung tâm tỉnh lỵ Đông Hà có sân bay Phú Bài – Thừa Thiên Huế (khoảng 80 km) và sân bay quốc tế Đà Nẵng (khoảng 150 km).

Tỉnh có đường sắt Bắc Nam, đường Quốc lộ 1 và đường Hồ Chí Minh chạy qua. Đặc biệt có đường 9 nối với đường liên Á qua cửa khẩu quốc tế Lao Bảo sang Lào. Dự án sân bay Quảng Trị ở Gio Linh, cách Đông Hà 7 km về phía bắc đang được chuẩn bị thủ tục triển khai đầu tư. Cảng biển Mỹ Thủy, Đại lộ Đông Tây bảy làn xe nối từ cảng Mỹ Thủy qua cửa khẩu Lao Bảo, có tổng vốn đầu tư khoảng 150 triệu USD.

II. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TỈNH QUẢNG TRỊ ĐẾN NĂM 2025

1.1.  Mục tiêu tổng quát

Phát huy ý chí, khát vọng vươn lên và sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực xã hội, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững. Đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư, tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ. Tiếp tục thực hiện đồng bộ, hiệu quả các khâu đột phá chiến lược, các chương trình, dự án trọng điểm và các ngành, lĩnh vực mang tính đột phá. Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Phát triển đồng bộ các lĩnh vực văn hóa – xã hội; nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, thực hiện tốt các chính sách xã hội. Nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự an toàn xã hội. Phấn đấu đến năm 2025, Quảng Trị trở thành tỉnh có trình độ phát triển thuộc nhóm trung bình cao của cả nước.

1. 2. Các chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2021-2025

a) Các chỉ tiêu kinh tế

– Tốc độ tăng trưởng kinh tế (tính theo GRDP) bình quân là 7,5 – 8%;

– GRDP bình quân đầu người đến năm 2025 là 85 – 90 triệu đồng;

– Cơ cấu kinh tế (tính theo GRDP): Nông nghiệp 15%; phi nông nghiệp 85%;

– Tổng vốn đầu tư toàn xã hội 123.700 tỷ đồng;

– Tổng thu ngân sách nhà nước trên địa bàn 22.500 tỷ đồng, thu nội địa tăng bình quân hàng năm là 10 – 12%/năm;

– Số doanh nghiệp đăng ký mới từ 1.500 – 2.000 doanh nghiệp;

– Tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới đến năm 2025 là 75,2%; đến năm 2025 có thêm 03 huyện nông thôn mới; tỷ lệ xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, kiểu mẫu là 25%;

b) Các chỉ tiêu xã hội

– Tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm từ 1 – 1,5%;

– Tỷ lệ lao động qua đào tạo đến năm 2025 là 75 – 80%; trong đó có bằng cấp, chứng chỉ trên 33%;

– Số lao động được tạo việc làm mới bình quân hàng năm 12.000 lao động;

– Đến năm 2025, trường học được công nhận đạt chuẩn quốc gia: cấp mầm non 70%; cấp tiểu học 80%, cấp THCS 80%, cấp THPT 60%, trường phổ thông có nhiều cấp học 60%.

– 100% xã, phường, thị trấn duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, phổ cập giáo dục tiểu học và phổ cập THCS.

– Đến năm 2025, đạt tỷ lệ 11 bác sĩ/1 vạn dân, 35 giường bệnh/1 vạn dân. Phấn đấu có 01 bệnh viện ngoài công lập đạt chuẩn quốc tế;

– Tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đến năm 2025 là 98%;

– Tuổi thọ trung bình đến năm 2025 là 70 tuổi.

c) Các chỉ tiêu môi trường

– Tỷ lệ độ che phủ rừng đến năm 2025 là 49,5%;

– Tỷ lệ dân số sử dụng nước sạch ở thành thị đến năm 2025 là 97%;

– Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh ở nông thôn đến năm 2025 là 97,5%;

– Đến năm 2025, tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở đô thị đạt 98% và tỷ lệ thu gom, xử lý chất thải rắn sinh hoạt ở nông thôn đạt 70%.

1. 3. Các chương trình, dự án trọng điểm và ngành, lĩnh vực đột phá

a) Các chương trình, dự án trọng điểm

– Hoàn thành đúng tiến độ và có chất lượng Quy hoạch tỉnh Quảng Trị thời kỳ 2021 – 2030 tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp huyện và toàn tỉnh; Đồ án Điều chỉnh quy hoạch chung xây dựng thành phố Đông Hà đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; điều chỉnh quy hoạch Khu Kinh tế Đông Nam Quảng Trị; xây dựng Quy hoạch phát triển các khu đô thị ven biển; các quy hoạch theo quy định của pháp luật, phục vụ yêu cầu phát triển của tỉnh trong giai đoạn tới.

– Hình thành Hành lang đường bộ và kinh tế từ cửa khẩu quốc tế La Lay về Mỹ Thủy và kết nối Hành lang kinh tế Đông – Tây. Nghiên cứu, xây dựng, triển khai một số trọng điểm kinh tế nhằm tạo thêm cực tăng trưởng mới.

– Triển khai một số dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2021- 2025 được xác định trọng điểm về lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, giao thông, khu công nghiệp và khu kinh tế, kho tàng, công nghệ thông tin, văn hóa – xã hội, bảo vệ môi trường tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh (Kèm theo danh mục dự án tại Phụ lục II).

– Khai thác có hiệu quả các tiềm năng, lợi thế của tỉnh, ưu tiên lựa chọn thu hút các dự án đầu tư triển khai vào các lĩnh vực như công nghiệp điện- năng lượng tái tạo, sản xuất-chế biến nông nghiệp; sản xuất, chế biến công nghiệp; xây dựng cơ sở hạ tầng, giao thông, đô thị, hạ tầng dịch vụ- giáo dục- y tế và du lịch, thông tin- truyền thông (Kèm theo danh mục dự án tại Phụ lục III)

b) Các ngành, lĩnh vực đột phá

– Các ngành công nghiệp dựa trên lợi thế của địa phương như: công nghiệp năng lượng; công nghiệp chế biến nông – lâm – thủy sản (nhất là công nghiệp chế biến gỗ); công nghiệp silicat; công nghiệp may mặc.

– Nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp hữu cơ, canh tác tự nhiên, liên kết theo chuỗi giá trị.

– Một số ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, tiềm năng lớn và có khả năng cạnh tranh; phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.

2. Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu:

2. 1. Tập trung hoàn thiện Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 gắn với quy hoạch vùng huyện, thị xã Quảng Trị, thành phố Đông Hà, quy hoạch sử dụng đất, các quy hoạch kỹ thuật chuyên ngành tạo định hướng chiến lược trong phát triển kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh của tỉnh trong 5 đến 10 năm tới.

2. 2. Đẩy mạnh tái cơ cấu kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trên 3 trụ cột chính:

– Nông nghiệp là “bệ đỡ” của nền kinh tế. Phát triển kinh tế nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới. Tái cơ cấu nông nghiệp trên cơ sở phát triển nông, lâm nghiệp, thủy sản hiệu quả, bền vững theo hướng hàng hóa gắn với thị trường tiêu thụ; phát triển nông nghiệp hữu cơ, công nghệ cao, thích ứng với biến đổi khí hậu. Phát triển chăn nuôi theo hướng công nghiệp, quy mô trang trại gắn với an toàn sinh học, an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường. Quản lý, bảo vệ và phát triển rừng bền vững. Chuyển đổi mạnh khai thác thủy sản xa bờ, ứng dụng công nghệ hiện đại. Duy trì vững chắc kết quả của các xã đã đạt chuẩn nông thôn mới; hướng tới xây dựng xã nông thôn mới kiểu mẫu; hoàn thành mục tiêu xây dựng xã, huyện đạt chuẩn nông thôn mới đề ra trong 5 năm 2021 – 2025.

– Công nghiệp, trong đó công nghiệp năng lượng là lĩnh vực đột phá. Phấn đấu khởi công Nhà máy điện khí LNG Hải Lăng giai đoạn 1 (1.500MW), chuẩn bị điều kiện để khởi công giai đoạn 2 (3.000MW). Tiếp tục đề nghị bổ sung các dự án điện gió khoảng 3.000MW- 4.000MW vào quy hoạch điện lực quốc gia giai đoạn 2021 – 2030; bổ sung dự án Hệ thống đường ống dẫn khí mỏ Kèn Bầu về Quảng Trị và nâng công suất Nhà máy xử lý khí tại Quảng Trị vào “Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp khí Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2035”; bổ sung vào Quy hoạch điện lực Quốc gia (Tổng sơ đồ điện VIII) các dự án nhiệt điện khí sử dụng nguồn khí từ mỏ Kèn Bầu để kêu gọi đầu tư. Quyết tâm phấn đấu để hiện thực hóa mục tiêu xây dựng Quảng Trị trở thành Trung tâm năng lượng của miền Trung vào năm 2030. Quy hoạch và phát triển công nghiệp phụ trợ dọc Quốc lộ 15D, Quốc lộ 49 để gắn liền Khu kinh tế cửa khấu La Lay với Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị và cảng biển Mỹ Thủy, hình thành nên Hành lang kinh tế (tuyến Xuyên Á thứ 2) song song với Hành lang kinh tế Đông Tây. Tiếp tục duy trì phát triển sản xuất các ngành công nghiệp có thế mạnh hiện có như công nghiệp năng lượng tái tạo, chế biến gỗ, gỗ MDF, chế biến sản phẩm cao su, cao su Camel, bia Hà Nội tại Quảng Trị, nước giải khát Super horse, dệt may, chế biến thủy sản, sản xuất vật liệu xây dựng.

– Phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đầu tư hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật tại các khu du lịch, điểm du lịch, các khu du lịch nghỉ dưỡng cao cấp. Phát triển du lịch lịch sử – chiến tranh cách mạng trở thành thương hiệu du lịch hòa bình của cả nước, xây dựng và định hình thương hiệu Lễ hội “Vì Hòa bình”. Phát triển du lịch gắn với phát triển thương mại – dịch vụ, phát triển sản phẩm chủ lực, thương hiệu của địa phương, hướng tới thương hiệu quốc gia; phát triển hệ thống chợ đầu mối, chợ nông thôn, chợ chuyên doanh, các trung tâm phân phối hàng hóa, trung tâm thương mại, siêu thị văn minh, hiện đại; phát triển hình thức dịch vụ tiếp vận trung chuyển hàng hóa Logistic gần khu vực cảng biển, vùng Đông Hà – Cam Lộ. Phấn đấu đưa Quảng Trị trở thành điểm trung chuyển hàng hóa của các nước trong khu vực vào năm 2030.

2.3. Hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng trên các lĩnh vực, tạo nền tảng cho phát triển xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân, nhất là vùng sâu, vùng xa và đô thị, tạo động lực phát triển.

– Xây dựng Cảng Mỹ Thủy; Cảng hàng không sân bay Quảng Trị; Đường ven biển kết nối hành lang kinh tế Đông Tây; dự án Quốc lộ 15D; cảng Cửa Việt bờ Nam; nâng cấp, mở rộng Quốc lộ 9 đoạn từ Quốc lộ 1 về cảng Cửa Việt; mở rộng Quốc lộ 9 đoạn tránh phía Nam Đông Hà; đường nối đường Hồ Chí Minh nhánh Đông và đường Hồ Chí Minh nhánh Tây; cao tốc Cam Lộ – Lao Bảo, đường Hùng Vương nối dài giai đoạn 3; đường từ sân bay Quảng Trị đến đường trung tâm Khu Kinh tế Đông Nam Quảng Trị.

– Đầu tư xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng thiết yếu tại Khu kinh tế Đông Nam Quảng Trị, Khu công nghiệp Quán Ngang, Khu công nghiệp Tây Bắc Hồ Xá và các cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Xây dựng một số công trình hạ tầng thiết yếu tại Khu Kinh tế thương mại đặc biệt Lao Bảo và khu vực cửa khẩu quốc tế La Lay. Triển khai xây dựng hạ tầng Khu công nghiệp Quảng Trị (VSIP 8), Khu công nghiệp đa ngành Triệu Phú.

– Phát triển hạ tầng đô thị hiện đại, thông minh, thích ứng với biến đổi khí hậu. Xây dựng các khu đô thị hiện đại. Phát triển đô thị ven biển. Ưu tiên đầu tư nguồn lực để thành phố Đông Hà đạt tiêu chí đô thị loại II trước năm 2025, phát triển thị xã Quảng Trị cơ bản đạt đô thị loại III gắn với việc quy hoạch và sắp xếp địa giới hành chính cấp huyện. Nâng cấp và xây dựng hệ thống cấp nước sạch phục vụ đô thị và khu vực nông thôn, các khu, cụm công nghiệp.

– Nâng cấp các công trình thủy lợi đảm bảo tưới tiêu chủ động; các công trình đê, kè phòng chống thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu; các khu neo đậu tránh trú bão, dịch vụ hậu cần nghề cá. Từng bước hoàn thành các tiêu chí về kết cấu hạ tầng trong xây dựng nông thôn mới.

– Phát triển hạ tầng thương mại nông thôn; xã hội hóa đầu tư xây dựng và kinh doanh, khai thác có hiệu quả chợ nông thôn, chợ đầu mối, chợ nông sản, thủy hải sản.

Nghiên cứu, xây dựng Công viên Thống nhất; tôn tạo di tích Khu lưu niệm Tổng Bí thư Lê Duẩn (giai đoạn 2); triển khai Dự án Phát triển cơ sở hạ tầng du lịch hỗ trợ cho tăng trưởng toàn diện khu vực tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (giai đoạn 2); nâng cấp di tích Thành cổ, Địa đạo Vịnh Mốc (gđ2). Nghiên cứu xây dựng Bệnh viện Y học cổ truyền tỉnh; đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế tuyến tỉnh, tuyến huyện. Hoàn thành Đề án hệ thống y tế cơ sở; Đề án xóa phòng học tạm, phòng học mượn giai đoạn 2019-2021; Đề án phát triển hệ thống các trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú tỉnh Quảng Trị đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

2.4. Triển khai thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các Chương trình mục tiêu quốc gia về: Xây dựng nông thôn mới, Giảm nghèo và an sinh xã hội, Phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

2.5 . Đổi mới, nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài nguyên đất đai, khoáng sản, nguồn đầu tư FDI, đầu tư tư nhân, kết hợp nâng cao hiệu quả tài chính công, đầu tư công, thu, chi ngân sách, kinh tế đối ngoại, gắn với phòng chống thiên tai, quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.

– Quản lý, phân bố và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên đất đai, khoáng sản. Chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về thể chế, chính sách, nguồn nhân lực và cơ sở hạ tầng, đất đai để tiếp nhận các dự án đầu tư. Mở rộng các hình thức đầu tư đối tác công tư, phát triển thị trường vốn, thị trường bất động sản, phát triển các hình thức liên doanh, liên kết đầu tư, góp vốn đầu tư bằng tài sản.

– Huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư công. Khai thác nguồn vốn ngoài nhà nước để đầu tư xây dựng các công trình, dự án phát triển kinh tế – xã hội, nhất là các công trình hạ tầng thiết yếu, quan trọng. Đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, văn hóa, thể thao, phát thanh, truyền hình, khoa học công nghệ, bảo vệ môi trường.

– Phát triển kinh tế đối ngoại để thúc đẩy hội nhập Quốc tế, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác giữa các địa phương, các doanh nghiệp của tỉnh với các đối tác nước ngoài. Đổi mới phương thức liên kết, phối hợp với các tỉnh trong khu vực và các địa phương trên Hành lang kinh tế Đông – Tây. Đẩy mạnh ngoại giao kinh tế phục vụ phát triển kinh tế – xã hội, tăng cường xúc tiến kêu gọi đầu tư nước ngoài, viện trợ phi chính phủ. Tranh thủ sự ủng hộ và phối hợp với các cơ quan đại diện ngoại giao và thương mại, đầu tư Việt Nam ở nước ngoài để thúc đẩy và khai thông cầu nối với các nhà đầu tư tiềm năng.

III. THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP TỈNH QUẢNG TRỊ

Phát triển công nghiệp luôn được coi là quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển của quốc gia hay một địa phương. Đối với tỉnh Quảng Trị trong thời gian qua, các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội từ tỉnh đến cơ sở luôn quan tâm thúc đẩy phát triển công nghiệp chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của tỉnh.

Công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng, những năm gần đây có đóng góp lớn nhất cho ngân sách nhà nước, trở thành ngành xuất khẩu chủ đạo với tốc độ tăng trưởng ở mức cao.

Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 22 tháng 3 năm 2018 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về định hướng xây dựng chính sách công nghiệp quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 cũng đã chỉ rõ: mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam hoàn thành công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực ASEAN về công nghiệp, trong đó một số ngành công nghiệp có sức cạnh tranh quốc tế và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; đến năm 2045, Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển hiện đại.

Phát triển công nghiệp luôn được coi là quan trọng hàng đầu trong quá trình phát triển của quốc gia hay một địa phương. Đối với tỉnh Quảng Trị trong thời gian qua, các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận và các tổ chức chính trị – xã hội từ tỉnh đến cơ sở luôn quan tâm thúc đẩy phát triển công nghiệp chiếm tỷ trọng quan trọng trong tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của tỉnh. Từ việc kịp thời ban hành các chương trình, kế hoạch, đề án, dự án phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp địa phương cho đến chú trọng công tác quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm công nghiệp phù hợp với tình hình thực tiễn của tỉnh. Nhờ đó mà lần đầu tiên sau 7 năm, năm 2019, tăng trưởng GRDP của tỉnh đạt trên 7,5% (so với cùng kỳ năm 2018). Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2019 ước tính tăng 10,25% (so với cùng kỳ năm 2018).

Trong giai đoạn 2016 – 2019, tỷ trọng công nghiệp trong GRDP của tỉnh đạt bình quân 13,2% ; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GRDP của tỉnh đạt bình quân 10%; tốc độ tăng trưởng giá trị gia tăng công nghiệp đạt bình quân 12,25%/năm. Nội bộ ngành công nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo tăng từ 75,4% năm 2016 lên 78,0% năm 2019. Năm 2019 là năm hoạt động thu hút đầu tư diễn ra sôi động trên địa bàn tỉnh với rất nhiều dự án đầu tư quy mô lớn được triển khai, sản xuất công nghiệp từng bước gắn với phát huy tiềm năng lợi thế của tỉnh, đặc biệt là ngành công nghiệp năng lượng tái tạo.

Công tác quy hoạch phát triển ngành, sản phẩm công nghiệp chủ yếu được xây dựng, điều chỉnh kịp thời phù hợp với tình hình thực tiễn. Các chính sách về phát triển hạ tầng khu, cụm công nghiệp, phát triển làng nghề … đã được quan tâm ban hành. Các quy hoạch có tính chiến lược như: quy hoạch phát công nghiệp,  trung tâm điện lực, quy hoạch sử dụng khí, gió… đã hoàn thành làm cơ sở cho việc kêu gọi, xúc tiến đầu tư các dự án vào những khu kinh tế, khu, cụm công nghiệp của tỉnh.

Trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có 02 Khu kinh tế (KKT) và 03 Khu Công nghiệp (KCN) nằm trong quy hoạch phát triển các KKT, KCN ở Việt Nam, bao gồm: Khu Kinh tế – Thương mại đặc biệt Lao Bảo, là mô hình KKT cửa khẩu đầu tiên được thành lập tại tỉnh (năm 1998), KKT Đông Nam Quảng Trị, là khu kinh tế ven biển được thành lập năm 2015 để tạo động lực phát triển của địa phương và Khu vực miền Trung;  KCN Nam Đông Hà, KCN Quán Ngang, KCN Tây Bắc Hồ Xá và 17 cụm công nghiệp.

Hoạt động đầu tư vào tỉnh đã có nhiều khởi sắc, nhất là đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp. Cho đến hết năm 2019, tại các KKT, KCN có 151 dự án được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư với tổng vốn đăng ký là 85.631 tỷ đồng, có 90 dự án đã đi vào hoạt động với tổng vốn đầu tư 8.210 tỷ đồng. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có sự tăng trưởng khá, giá trị sản xuất đạt hơn 5.500 tỷ đồng, tăng 13,4% với với năm 2018, nộp ngân sách hơn 420 tỷ đồng, giải quyết việc làm ổn định cho hơn 7.000 lao động với mức thu nhập bình quân đạt 6,2 triệu đồng/người/tháng, cao hơn so với mức 5,9 triệu đồng trong năm 2018.

Nhiều dự án trọng điểm về công nghiệp đã hoàn thành, đưa vào hoạt động như: Nhà máy bia Hà Nội Quảng Trị, Nhà máy nghiền Clinke Bỉm Sơn (Đông Hà), các nhà máy tinh bột sắn như An Thái, Nhà máy sản xuất phân bón Bình Điền, các nhà máy thủy điện nhỏ, điện gió, nhà máy gỗ MDF 2, sản xuất gạch không nung… góp phần gia tăng giá trị sản xuất công nghiệp. Hiện nay, Quảng Trị đã có 7 nhà máy thủy điện, 01 nhà máy điện gió, với tổng công suất 153,9 MW , trong thời gian tới, sẽ đưa vào vận hành 01 nhà máy điện gió và 01 nhà máy điện mặt trời với công suất 79,5 MW… Ngoài ra Quảng trị còn rất nhiều dự án với quy mô

Bài mới mỗi ngày

Không có nội dung
Translate »