Bến Tre

Chi tiết - Bến Tre

TỔNG QUAN VỀ TỈNH BẾN TRE

Bến Tre là một trong 13 tỉnh, thành phố thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long, được hợp thành bởi 03 dãy cù lao: An Hóa, Bảo và Minh, do phù sa 04 nhánh sông Cửu Long (Cửa Đại, Ba Lai, Hàm Luông, Cổ Chiên) bồi tụ. Tỉnh có diện tích tự nhiên 2.394,8 km2, dân số 1.289,1 nghìn người, mật độ dân số là 538 người/km2 ; có 09 đơn vị hành chính cấp huyện: thành phố Bến Tre, huyện Châu Thành, Bình Đại, Giồng Trôm, Ba Tri, Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, Chợ Lách và Thạnh Phú (trong đó có 03 huyện biển: Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú); 157 xã, phường, thị trấn

I. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ – XÃ HỘI

1. Điều kiện tự nhiên

–  Vị trí địa lý: Bến Tre là tỉnh thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, có diện tích tự nhiên là 2.360 km², được hợp thành bởi cù lao An Hóa, cù lao Bảo, cù lao Minh và do phù sa của 4 nhánh sông Cửu Long bồi tụ thành (sông Tiền, sông Ba Lai, sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên). Bến Tre cách thành phố Hồ Chí Minh 86 km, cách thành phố Cần Thơ 120 km, phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang, phía Tây và phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh, phía Đông giáp biển Đông.

–  Khí hậu: tỉnh Bến Tre nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cận xích đạo, với hai mùa rõ rệt: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12 đến tháng 4 năm sau. Lượng mưa trung bình hàng năm từ 2.000 đến 2.300 mm, nhiệt độ trung bình hàng năm từ 26°C – 27°C. Với vị trí nằm tiếp giáp biển Đông, nhưng Bến Tre ít chịu ảnh hưởng của bão lũ, khí hậu ôn hòa, mát mẻ quanh năm… Đây là điều kiện thuận lợi cho việc đầu tư, sản xuất, kinh doanh và du lịch của tỉnh.


2. Tài nguyên thiên nhiên

–  Tài nguyên đất: Bến Tre là tỉnh có nguồn tài nguyên đất phong phú, với nhiều loại đất như: đất cát, đất phù sa, đất phèn, đất mặn. Sản xuất nông nghiệp của tỉnh ngày càng mở rộng, nhu cầu thâm canh, tăng vụ ngày càng được chú trọng. Hơn 20 năm qua, bằng những nổ lực của mình, nhân dân Bến Tre cũng như cả vùng đồng bằng Nam Bộ đã tiến hành nhiều công trình tháu chua rửa mặn, cải tạo đất đai nhằm khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên này có hiệu quả hơn.

–  Tài nguyên nước: tỉnh Bến Tre có 4 con sông lớn chảy qua là: Mỹ Tho, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên. Những con sông này giữ một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hóa của nhân dân trong tỉnh như: cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và nông nghiệp, góp phần làm tươi đẹp cảnh quan, điều hòa khí hậu. Hệ thống sông, rạch trong tỉnh còn là điều kiện thuận lợi cho Bến Tre phát triển mạng lưới giao thông đường thủy và thủy lợi.

–  Tài nguyên động vật, thực vật

Nằm ở giữa môi trường sông và biển, chịu ảnh hưởng của khí hậu gió mùa nhiệt đới nên cảnh quan tự nhiên của Bến Tre mang đặc trưng của miền địa lý động vật, thực vật miền Tây Nam Bộ. Những con sông lớn và vùng biển Đông ở Bến Tre có nhiều loại thủy sản như: cá vược, cá dứa, cá bạc má, cá thiều, cá mối, cá cơm, nghêu, cua biển và tôm,…đây là nguồn nguyên liệu vô cùng phong phú cho ngành công nghiệp chế biến thủy sản của tỉnh phát triển. Là tỉnh có 3 huyện giáp biển: Ba Tri, Bình Đại và Thạnh Phú, rừng phòng hộ ở các huyện đang được bảo vệ nhằm ổn định vành đai rừng phòng hộ ven biển, thông qua việc trồng mới và quản lý lâm sản xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh. Năm 2010, Bến Tre đã trồng mới 72 ha rừng, chăm sóc 336 ha và bảo vệ 3.461 ha.

3. Đặc điểm kinh tế – xã hội

Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp, với thế mạnh là kinh tế vườn và kinh tế biển; với khoảng 72.770ha cây dừa, 27.855 ha cây ăn trái, 45.000 ha nuôi thủy sản, 3.845 tàu khai thác thủy sản, với công suất bình quân 346 CV/tàu,… Thời gian qua, Bến Tre rất quan tâm đến việc xây dựng, hoàn thiện chuỗi giá trị trên các sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh, đến nay đã có 5 chuỗi giá trị sản phẩm được hình thành và phát triển (dừa, bưởi da xanh, chôm chôm, nhãn và tôm biển) và 03 chuỗi đang xây dựng (hoa kiểng, bò và heo). Bến Tre có 02 khu công nghiệp gồm Giao Long (quy mô 170 ha) và An Hiệp (quy mô 72 ha) (thuộc huyện Châu Thành) hiện đã lấp đầy 100% diện tích, hiện đang triển khai xây dựng Khu Công nghiệp Phú Thuận (quy mô 230 ha, thuộc huyện Bình Đại); 10 cụm công nghiệp ở các huyện, với tổng diện tích 347,3 ha; có 57 làng nghề đã được công nhận. Các thành phần kinh tế được quan tâm thành lập mới và phát triển khá tốt, đến nay toàn tỉnh có 4.903 doanh nghiệp với vốn đăng ký 44.242,063 tỷ đồng; Chương trình “Đồng khởi khởi nghiệp và Phát triển doanh nghiệp” được triển khai thực hiện đạt kết quả bước đầu khá quan trọng, nhiều ý tưởng, dự án khởi nghiệp được kết nối, hỗ trợ và phát huy khá tốt,…

Những năm gần đây, tình hình đầu tư phát triển, xây dựng kết cấu hạ tầng rất được quan tâm, hàng loạt các công trình, dự án trên các lĩnh vực được hoàn thành, đưa vào sử dụng đã góp phần rất lớn trong phát triển kinh tế – xã hội của địa phương; đến nay, tất cả các cầu trên các tuyến đường chính của tỉnh đều đã được bê tông hóa, tạo giao thông thông suốt và an toàn; bên cạnh đó, Bến Tre cũng chú trọng đến phát triển đô thị, thành phố Bến Tre đạt đô thị loại II, có 02 đô thị loại III, 02 đô thị loại IV và 20 đô thị loại V. Hệ thống cung cấp điện, cung cấp nước ngọt phục vụ sản xuất và sinh hoạt, bưu chính viễn thông, tín dụng ngân hàng, dịch vụ vận tải,… được quan tâm đầu tư phát triển cả về quy mô và chất lượng phục vụ. Đến nay, có  99.93% hộ dân được sử dụng điện; 98.5% hộ dân sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, trong đó có 61% sử dụng nước sạch. Kết cấu hạ tầng văn hóa – xã hội cũng được quan tâm đầu tư, hệ thống trường lớp, bệnh viện và trạm y tế cơ sở,… được xây dựng và mở rộng; phối hợp thành lập và đưa Phân hiệu Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh tại Bến Tre (đang phối hợp thực hiện quy trình thành lập Đại học Bến Tre – Trường thành viên của Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh) từng bước đi vào hoạt động ổn định, góp phần đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cho tỉnh và khu vực; đã xây dựng 157/157 xã, phường, thị trấn đạt tiêu chí Quốc gia về y tế, 100% Trạm y tế có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi để chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho phụ nữ và trẻ em, 100% xã có y tế ấp, 96,5% ấp có y tế ấp, 79,70% tổ nhân nhân tự quản có TNVSKCĐ, 93,6% TYT xã có cán bộ YHDT; phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống hóa”, gắn với xây dựng nông thôn mới và đô thị văn minh ngày càng phát triển, Đến cuối năm 2020, Bến Tre hiện có 51 xã nông thôn mới, huyện Chợ Lách đạt huyện nông thôn mới, thành phố Bến Tre hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới và 05 phường đạt chuẩn văn minh đô thị. Các hoạt động thông tin tuyên truyền, văn hóa, văn nghệ, có tiến bộ, nội dung và hình thức đổi mới khá phong phú; hệ thống thông tin đại chúng phát triển rộng khắp đến cơ sở, góp phần nâng cao dân trí và nhu cầu hưởng thụ văn hóa của nhân dân.

+ Bến Tre là tỉnh có nhiều lợi thế về nguồn lợi thủy sản, với 65 km chiều dài bờ biển nên thuận lợi cho việc đánh bắt và nuôi trồng  thủy sản, tạo ra nguồn tài nguyên biển phong phú với các loại tôm, cua, cá, mực, nhuyễn thể…Đây còn là vùng đất phù sa trù phú, sản sinh ra vựa lúa lớn của đồng bằng sông Cửu Long và nhiều loại nông sản mang lại hiệu quả kinh tế cao

+ Những vườn hoa kiểng, cây trái nổi tiếng ở vùng Cái Mơn- Chợ Lách hàng năm cung ứng cho thị trường nhiều loại trái cây và hàng triệu giống cây trồng, cây cảnh nổi tiếng. Đặc biệt, Bến Tre- xứ sở dừa Việt Nam, nơi có diện tích trồng dừa lớn nhất cả nước khoảng 51.560 ha. Cây dừa đã góp phần to lớn vào sự phát triển kinh tế của tỉnh, có thể nói là cây xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm cho hàng ngàn lao động, giúp nâng cao thu nhập, cải  thiện đời sống, đồng thời góp một phần đáng kể vào ngân sách địa phương

.+ Toàn tỉnh hiện có trên 2.886 doanh nghiệp và hơn 44.000 hộ kinh doanh cá thể đăng ký hoạt động trên các lĩnh vực. Bến Tre đã hình thành Khu công nghiệp Giao Long và Khu công nghiệp An Hiệp đưa vào hoạt động thu hút nhiều dự án đầu tư vào tỉnh. Hiện tỉnh đang tập trung phát triển các loại hình du lịch sinh thái, sông nước. Trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp phát triển khá ổn định, thương mại- du lịch phong phú, đa dạng ngày càng sôi động, tạo tiền đề cho bước đột phá tăng trưởng kinh tế của địa phương trong thời gian tới. Đặc biệt, cống đập Ba Lai, cầu Rạch Miễu hoàn thành và đưa vào sử dụng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, mở ra tương lai phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh, đưa Bến Tre thoát khỏi thế “ốc đảo”, nhanh chóng hòa nhập với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, tạo đà phát triển các mặt kinh tế- xã hội và bảo đảm an ninh quốc phòng cho toàn vùng.

– Dân cư và nguồn lao động:  tỉnh Bến Tre có khoảng 1,255 triệu người với 64,5% dân số trong độ tuổi lao động. Bên cạnh đó, tỉnh có hai trường Cao đẳng và trên 60 cơ sở dạy nghề. Hàng năm tỉnh đã đào tạo và giới thiệu việc làm cho khoảng 30.000 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 36%. Bến Tre hiện có 31 trường trung học với 40.000 học sinh, trong đó có khoảng 12.000 học sinh trung học phổ thông tốt nghiệp hàng năm và khoảng 3.000 học sinh bước vào các trường Đại học, Cao đẳng.

4. Cơ sở hạ tầng

– Giao thông

+ Đường bộ: hệ thống giao thông đường bộ của tỉnh có vị trí đặc biệt trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Thành phố Bến Tre nối liền thành phố Hồ Chí Minh (qua Tiền Giang, Long An) dài 86 km. Quốc lộ 60 nối liền các tỉnh miền Tây đang được đầu tư nâng cấp, cầu Rạch Miễu đã khánh thành và đưa vào sử dụng, rút ngắn đáng kể thời gian đến Bến Tre bằng đường bộ. Cầu Hàm Luông hoàn thành nối liền cù lao Bảo và cù lao Minh, cầu Cổ Chiên nối Bến Tre với Trà Vinh đang được xây dựng khi hoàn thành sẽ là động lực phát triển kinh tế của địa phương, gắn kết kinh tế của tỉnh với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, các vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, để tiềm năng kinh tế- văn hóa- xã hội của Bến Tre được khơi dậy và phát triển mạnh mẽ

+  Đường thủy: Bến Tre là tỉnh có hệ thống sông ngòi khá phát triển, với 4 con sông lớn chảy qua. Các con sông có một vị trí quan trọng trong hệ thống giao thông đường thủy không chỉ của tỉnh mà còn của cả khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra, mạng lưới kênh rạch chằng chịt nối liền nhau đã tạo thành một mạng lưới giao thông và thủy lợi rất thuận tiện.

–  Bưu chính viễn thông: thời gian qua, Bưu chính viễn thông Bến Tre đã xây dựng cơ sở hạ tầng, lắp đặt thêm nhiều trạm BTS 2G và 3G; đầu tư xây dựng và đưa vào sử dụng nhiều dự án hiện đại về công nghệ, mở rộng về dung lượng đảm bảo phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Trong những năm tới, Bưu chính viễn thông Bến Tre sẽ tiếp tục có những sách lược, hướng đi phù hợp để phát triển sản xuất, kinh doanh bền vững, phát triển nguồn nhân lực, tập trung xây dựng lực lượng cán bộ khoa học có trình độ và năng lực quản lý, quyết giữ vững vai trò chủ lực trong lĩnh vực bưu chính viễn thông trên địa bàn tỉnh…

–  Cấp thoát nước: Hệ thống xử lý và cấp nước tập trung đủ cho nhu cầu sinh hoạt của người dân thành phố và trung tâm các huyện. Hiện tại, Công ty cấp thoát nước Bến Tre có hai nhà máy ở xã Sơn Đông (thành phố Bến Tre) và xã Hữu Định (huyện Châu Thành), công suất 32.000 m³/ngày đêm và nhà máy cấp nước Chợ Lách, công suất 1.000 m³/ngày đêm. Với công suất này, hàng năm Công ty cung cấp trên 7 triệu m³ nước cho những  hộ dân vùng đô thị và lân cận.

–  Điện lực: những năm gần đây, ngành điện đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng để xây dựng nhiều công trình trọng điểm như: trạm 220 kV Bến Tre – 2 x 125 MVA đường dây 220 kV Mỹ Tho – Bến Tre, đường dây 110 kV Mỏ Cày – Chợ Lách, đường dây 110  kV Vĩnh Long – Chợ Lách, trạm 110 kV Chợ Lách và dự kiến công trình trạm 110 kV Bình Đại, trạm 110 kV Thạnh Phú, đường dây 110 kV Giồng Trôm – Bình Đại, Mỏ Cày – Thạnh Phú đưa vào vận hành trong các năm 2012 và 2013.

II. TIỀM NĂNG VÀ CƠ HỘI HỢP TÁC PHÁT TRIỂN

Bến Tre là tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long có nhiều lợi thế trong giao thương như: với một hệ thống sông ngòi chằng chịt rất thuận lợi cho giao thông đường thủy. Quốc lộ 60 nối liền các tỉnh miền Tây đang được nâng cấp, cầu Rạch Miễu và cầu Hàm luông đã khánh thành và đưa vào sử dụng đã rút ngắn đáng kể thời gian đến Bến Tre bằng đường bộ. Năm 2011, cầu Cổ Chiên đã khởi công xây dựng nối liền Bến Tre và tỉnh Trà Vinh, đây sẽ là động lực phát triển kinh tế của vùng, là các trục giao thông quan trọng gắn kết kinh tế của tỉnh với các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Hiện nay, tỉnh Bến Tre có 03 cảng cá, 01 cảng gần khu công nghiệp Giao Long và 01 cảng bốc xếp hàng hóa trên sông Hàm Luông.

Tỉnh Bến Tre được chia thành 9 đơn vị hành chính gồm: thành phố Bến Tre và 8 huyện: Mỏ Cày Bắc, Mỏ Cày Nam, Châu Thành, Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại, Chợ Lách, Thạnh Phú, với 164 xã, phường và thị trấn. Ngày 02/9/2009, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 34/NQ-CP về việc thành lập thành phố Bến Tre trực thuộc tỉnh Bến Tre, đây là động lực để thúc đẩy kinh tế của tỉnh khởi sắc trong thời gian không xa. Về tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân trên 10%/năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2009 là 790 USD, chỉ số năng lực cạnh tranh năm 2010 đứng thứ 10/63 tỉnh, thành cả nước.

Nguồn tài nguyên chủ yếu và quan trọng của tỉnh là tài nguyên đất nông nghiệp. Năm 2010, diện tích đất nông nghiệp của tỉnh là 179.672ha, chiếm 76,11% diện tích đất tự nhiên, trong đó diên tích trồng cây ăn trái là 32.023ha, sản lượng là 318.469 tấn, diện tích trồng mía là 5.865ha, sản lượng đạt 460.056 tấn, diện tích trồng cây dừa là 51.560 ha, sản lượng đạt 420 triệu trái/năm và lớn nhất nước. Từ dừa có thể làm ra nhiều sản phẩm hết sức đa dạng và phong phú, được thị trường trong nước và quốc tế ưa chuộng. Bến Tre có thế mạnh về kinh tế thủy sản, với 65km chiều dài bờ biển và diện tích các huyện ven biển nên thuận lợi cho đánh bắt và nuôi trồng thủy hải sản, tạo ra nguồn tài nguyên biển phong phú với các loại tôm, cua, cá, mực, nhuyễn thể hai mảnh vỏ tự nhiên. Năm 2010, sản lượng đánh bắt là 122.608 tấn, sản lượng nuôi trồng 168148 tấn. Lực lượng thương nghiệp phát triển khá nhanh, toàn tỉnh hiện có 2.886 doanh nghiệp và 44.000 hộ kinh doanh cá thể đăng ký hoạt động trên các lĩnh vực, thu hút trên 100.000 ngàn lao động với thu nhập ổn định.

Trong năm 2010, ngành công nghiệp trên đà phát triển, giá trị sản xuất công nghiệp đạt 3.710 tỷ đồng, trong đó doanh nghiệp trong nước đạt 3.359,5 tỷ đồng, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 350,5 tỷ đồng, sản phẩm chủ yếu là thuỷ hải sản, các sản phẩm chế biến từ dừa, thủ công mỹ nghệ. Bến Tre đã hình thành khu công nghiệp Giao Long và khu công nghiệp An Hiệp đưa vào hoạt động thu hút được 25 dự án với tổng vốn đầu tư là 283,5 triệu USD, trong đó vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có 14 dự án, vốn đầu tư trong nước có 11 dự án, đến nay đã có 13 dự án đã đi vào hoạt động ổn định. 2 Cụm công nghiệp mới hình thành là Cụm công nghiệp Phong Nẫm, huyện Giồng Trôm và Cụm công nghiệp Ba Tri, huyện Ba Tri. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ đạt 15.200 tỷ tăng 21,28% so với cùng kỳ. Toàn tỉnh hiện có 175 chợ bao gồm 01 chợ cấp I, 8 chợ cấp II và 166 chợ cấp III và chợ tạm. Ngoài hệ thống chợ truyền thống, loại hình thương mại hiện đại cũng đang từng bước hình thành với các dự án: Trung tâm thương mại Bì

Tổng kim ngạch xuất khẩu đạt 230 triệu USD, tăng 22,15% so với cùng kỳ, kim ngạch nhập khẩu đạt 65 triệu USD, tăng 19,46% so với cùng kỳ, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là thuỷ hải sản, hàng may mặc, các sản phẩm từ dừa, hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ. Thị trường xuất khẩu của các sản phẩm Bến Tre đã có mặt trên 80 nước và vùng lãnh thổ, trong đó Thị trường châu Á, châu Mỹ, EU và châu Phi. Tỉnh đang tập trung phát triển các loại hình du lịch sinh thái, sông nước. Trên lĩnh vực sản xuất công nghiệp phát triển khá ổn định, thương mại – dịch vụ phong phú, đa dạng ngày càng sôi động, tạo tiền đề cho bước đột phá tăng trưởng kinh tế của địa phương trong thời gian tới.

Trong những năm gần đây, Bến Tre đã ban hành nhiều chính sách ưu đãi đầu tư trên các lĩnh vực kinh tế. Đặc biệt là tỉnh dành nhiều ưu đãi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Với những lợi thế về giao thương và tiềm năng kinh tế hiện có, Bến Tre luôn mở rộng vòng tay mời gọi và hân hoan chào đón các nhà đầu tư trong và ngoài nước đến Bến Tre hợp tác mở rộng giao thương để cùng phát triển.

Phấn đấu xây dựng Bến Tre trở thành tỉnh phát triển khá của vùng đồng bằng sông Cửu Long vào năm 2025 và của cả nước vào năm 2030”.

Để thực hiện đạt được các mục tiêu trên, Tỉnh ủy khóa XI nhiệm kỳ 2020 – 2025 đã cụ thể hoá Nghị quyết Đại hội thành 06 nghị quyết, 06 đề án, 04 chương trình, 02 chỉ thị; tập trung chuẩn bị các điều kiện để triển khai thực hiện 05 nhiệm vụ trọng tâm, 03 nhiệm vụ đột phá, 11 công trình, dự án trọng điểm; tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các chủ trương, chương trình, phong trào thiết thực, như: Chủ trương phân công cán bộ theo dõi, hỗ trợ địa bàn theo phương châm “Tỉnh nắm tới xã; huyện nắm tới ấp; xã nắm tới hộ gia đình”, phong trào thi đua “Đồng Khởi mới”, Chương trình “Đồng khởi khởi nghiệp và Phát triển doanh nghiệp”,… Năm 2021, Tỉnh uỷ xã định chủ đề là “Đồng thuận – Sáng tạo”, nhằm tập sự thống nhất, đồng thuận trong nội bộ, Nhân dân; sự chủ động, sáng tạo, linh hoạt của các cấp, các ngành, cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên trong quá trình tổ chức quán triệt và cụ thể hoá thực hiện Nghị quyết Đại hội; kết quả của năm 2021 với vị trí là năm đầu nhiệm kỳ sẽ tạo tiền đề, cơ sở quan trọng để triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.

– HẾT-

Bài mới mỗi ngày

Không có nội dung
Translate »